MÔNG CỔ-Thời oanh
liệt còn không?!
Mogolian princess costume |
Có lẽ bị nhiễm Kim Dung hơi nhiều, hay là thích món ăn
“Mongolian beef” trong những nhà hàng Trung Hoa?? nên chúng tôi đã không ngần ngại đường xa trắc trở vượt
gần hai ngày dể đi từ San Francisco đến nước Mông Cổ nơi mà chàng “trâu nước”
Quách Tỉnh đã được nuôi lớn, và cũng theo lịch sử đó là đất nước của Thành Cát
Tư Hãn- một kẻ thù của dân tộc Việt Nam.
Chúng ta hay có câu đố vui “người nào lùn nhất?- đó là người
“mông cổ” vì chỉ có “mông và cổ” mà thôi. Nhưng xin thưa với quý vị điều này
hoàn toàn trái ngược với thực tế. Bản thân tôi rất ngạc nhiên khi gíáp mặt với
người “Mông Cổ” thứ thiệt; các thiếu nữ rất cao; trung bình cao hơn người Việt
và ăn mặc rất ư là “a la mode” không thua gì các người mẫu, cho dù là ở vùng
miền quê xa thủ đô, hay làm việc lao động tay chân như chùi dọn, nấu bếp vẫn
mặc váy, quần sọt hoặc quần lửng ngang gối, và áo chỉ có “hai dây an toàn” rất
ư là…hấp dẫn.
Chúng tôi đến thủ đô Ulanbator (UB) của Mông Cổ theo chuyến
bay của hãng Korean Air vào 11 giờ tối ngàyđầu tháng bảy. Phi trường UB rất
nhỏ; Thủ tục nhập cảnh rât dễ dàng, có thể đem vào bất cứ hàng gì không phải là
vũ khí và ma túy. Có lẽ vì đất nước đó không thể trồng rau trái gì nên không sợ
bị nhiẽm. Chúng tôi thấy người Đại Hàn đem qua từng kiện kim chi, nước uống
đóng chai, mì ăn liền…
Nhân viên hải quan và di trú rất nhã nhặn và thân thiện.
Chúng tôi gặp trở ngại là hành lý không đến cùng chuyến bay. Nhân viên của phi
trường vui vẻ cho tour guide của chúng tôi vào luôn trong khu vực giới hạn để
giúp thông dịch và điền tờ “khiếu nại” (claim) với hãng bay.
Ra khỏi phi trường với hai tay “nhẹ nhàng” vì không có hành
lý thì cũng gần 12 giò khuya. Chúng tôi được hướng dẫn về khách sạn Palace
để sáng sớm hôm sau bắt đầu lên đường xuôi nam thám hiểm sa mạc Gobi .
Chỉ ra khỏi khu vực thủ đô không qúa 50 km, cảnh vật và đời
sống hoàn toàn thay đổi. Không còn nhà xây cao tầng, không còn đường trải nhựa
và dĩ nhiên cũng không còn nạn kẹt xe. Tất cả là đồng không mông quạnh với các
lều trại (ger) như quý vị xem trong phim “Anh Hùng Xạ Điêu”. Hơn 2/3 dân Mông
Cổ thích sống cuộc sống du mục trong các lều để dễ di chuyển khi thời tiết thay
đổi. Lạnh thì thiên di về nơi ấm hơn.
Từ UB đến sa mạc Gobi phải
đi hai ngày lái xe trên những lối mòn do bánh xe đi trước hằn trên cỏ úa. Tất cả không có một bản chỉ dẫn. Mọi
thứ đều tùy thuộc vào kinh nghiệm của tài xế. Những người này hầu như ai cũng
hơn 20 năm lái xe “liên tỉnh”. Tài xế thường nhìn theo màu sắc của các ngọn núi
phía trước mà định hướng. Thật là quá “risky”. Trên đồng rộng mênh mông núi non
trùng điệp dãy này nối tiêp dãy khác, và có lúc bị bão sa mạc làm cát bụi tung
mù trời không thấy gì hết, mà cũng không thể liên lạc với thế giới “văn minh”
vì không có sóng tiếp vận điện thoại (nếu mà xãy ra sự cố gì thì cũng không ai
tiếp cứu) thế mà không bị lạc đường. Thật cũng rất “mạo hiểm” đó quý vị ạ!!!
Nhưng mà “lỡ” ra đi rồi thành ra chúng tôi chỉ còn việc “cầu nguyện” cho “đi
đến nơi, về đến chốn”.
Đến ngày thứ ba của hành trình chúng tôi đến sa mạc Gobi và
bắt đầu đi thăm các cảnh trí thiên nhiênGobi là
đồi cát Khongor San Dune. Đồi cát này dài nhất thế giới 180Km. Đồi cát màu vàng
nhưng dưới ánh mặt trời đôi lúc phản chiếu màu trắng như tuyết. Tiếc rằng buôỉ
chiều đến đó trời bị mưa giông bất ngờ nên chúng tôi không thể leo cao lên trên
đồi. Chỉ có cưỡi lạc đà đi dọc một đọan và sáng hôm sau thì đi hiking một đoạn
nữa mà thôi (vì quá dài không có sức để đi đó).
bằng lạc đà và ngưạ như thung lũng Yol
Valley, Tungenee Valley nơi tập trung của nhiều chim eagle, cũng như thăm viện
bảo tàng Gobi nơi trưng bày nguồn gốc sự hình thành sa mạc và các sinh thực vật
sống trong đó. điểm chính của sa mạc
Kế đến chúng tôi đi đến Bayanzag để coi Flaming Cliffs toàn
bằng đá đỏ, vùng này do một nhà địa chất Hoa Kỳ khám phá.
Sau đó thì đến Ongii
khiid để thăm vết tích của một ngôi chùa Lama- “Monastry of Bari Lama”. Chùa
này do các thấy tu Lama xây dựng và tu hành nhưng đã bị tàn phá năm 1933 khi
Mông Cổ dưới chế độ cộng sản Liên Xô. Ngày nay thế giới đang kêu gọi sự giúp đỡ
về công, của để tái xây dựng lại.
Tiếp theo chúng tôi thằm viếng Kharakhorum là kinh thành xưa
thời Đại Hãn (Ancient capital city of Chingis Khan). Ở đó có đền Erdene- Zuu và
đây cũng là trung tâm phật giáo đầu tiên của Mông Cổ.
Trong thời gian “vi hành” trên miền sa mạc, chúng tôi nghĩ
đêm trong những lều trại (tourist ger), đó
Chúng tôi có dịp thăm viếng gia đình những người du mục để
biết đến đời sống dân du mục mông cổ rất đơn giãn và thô sơ; mọi sinh hoạt của
gia đình bao thế hệ cũng gom vào trong một cái lều đó. Một bếp lò được xây ở
chính giưã để nấu ăn và làm lò sưởi. Không có một sự “riêng tư” nào. Chủ yếu
người du mục sống bằng chăn nuôi gia súc:thịt để ăn lông, da để làm y phục, hay
các vật dụng khác. Các đàn dê, cừu, bò,
ngưạ, lạc đà, suốt ngày nhởn nhơ, thơ thẩn gặm cỏ khắp các cánh đồng. Chủ nhân
của các đàn gia súc này phải đóng dấu trên lưng con vật của mình để phân biệt.
Nếu Ấn Độ có số lượng bò bằng ½ dân số, thì Mông Cổ có số lượng
ngựa bằng 10 lần dân số; chả trách gì thời xa xưa của đế chế của Thành Cát Tư
Hãn đã nói vó ngựa Mông Cổ đến đâu thì cỏ không thể mọc lên được.
Chúng tôi được nếm sữa ngựa tươi mới vắt. Sữa ngựa có chất
nồng giống bia (nhưng không có gas) và hơi chua như có trộn ya-ourt. Nếu uống
nhiều có thể bị say như say rượu. Đàn ông Mông Cổ rất thích uống sữa ngưạ (?!).
Vì hình thể địa lý và khí hậu, Mông Cổ không thể trồng nhiều
loại rau chỉ có khoai tây, cà rốt hành và bắp cải, nên dân du mục chủ yếu là ăn
thịt. Đặc biệt không có thịt heo cho nên thịt heo rau trái rất mắc và chỉ có
bán ở thủ đô UB; nhưng không có ai béo phì đến cần phải “diet” như ở xứ sở cờ
hoa. Thịt bò Mông Cổ ở Gobi rất mềm (nhưng
không bằng ở Kobe- Nhật) chẳng hổ danh là “Mongolian beef”. Nhưng chế biến theo
cách mông cổ thì không được ngon bằng lối của Đại Hàn. Bởi vậy nhà hàng Korean
food ở UB rất nhiều mà ngon và rẽ so với ở Hoa Kỳ (so với khẩu vị của chúng tôi
mà thôi)
Ovoo |
Nguời du mục Mông Cổ có vẻ hơi “mê tín” thí dụ như chết cũng
không cần chôn chỉ bỏ xác ngoài đồng và có một loại chim ăn thịt người rỉa ăn.
Nhưng họ cho rằng chim này từ chối không ăn thịt người chết nào mà khi còn sống
không được lương thiện; Bởi vậy người dân ai cũng tránh làm điều…bất lương!!!
Hoặc là ngay trong đời sống hiện tại bây giờ họ vẫn còn tin
vào thiên nhiên và thần thánh. Có nhiều vùng người dân cho là linh thiêng thì họ
làm nhưng “Ovoo” là kết hợp những hòn đá thành những khối cao để cầu nguyện. Trên
đường đi đến Gobi chúng tôi đi qua một nơi mà
mọi tài xế đều tin tưởng là thiêng nhất nên họ đều dừng lại, đi quanh 3 vòng
theo chiều kim đồng hồ, rồi đặt vào một hòn đá và cầu nguyện thì mọi ước nguyện
sẽ thành…!!!Ở nơi đó chúng tôi thấy có nhiều cái nạn bằng gỗ của những người tàn
tật. Hỏi ra thì được trả lời là nạn của nhưng người cầu nguyện và nay họ lành bệnh
có thể đi lại được rồi nên đem nạn đến để đó để minh chứng. Đồng thời chúng tôi
cũng thấy có rất nhiều tiền “cúng” để đầy (chắc là tạ ơn???)
Sau cuộc hành trình xuôi Nam hơn tuần lễ, chúng tôi trở về
lại thủ đô UB để kịp tham dự Nadaam
Nadaam Festival |
Hằng năm vào 2 ngày 11,12 tháng bảy Mông Cổ có tổ chức lễ
hội Nadaam như là quốc lễ để vua tuyển chọn nhân tài ra giúp nước. Ngày nay lễ
hội đó chỉ có tính chất tinh thần truyền thống vì không còn ai mang gươm, cỡi
ngựa ra trận. Có 3 cuộc thi chính trong Nadaam festival là thi vật (wrestling),
bắn cung (archery) và đua ngựa (horse race). Mỗi năm Tổng thống Mông Cổ đều dự
lễ khai mạc và lễ bế mạc để trao giải thưởng cho người thắng cuộc. Đặc biệt kỳ
này còn có sự tham dự của Hoàng Tử Nhật bản và dĩ nhiên là rất nhiều du khách
trên thế giới trong đó có chúng tôi.
Archery |
Có rất nhiều cuộc đua ngưạ dành cho các loại tuổi. Mỗi chặng
đua dài 17 km trên cánh đồng; Chúng tôi theo dõi trận đua của ngựa 3 tuổi và một
điều thích thú xãy ra là con ngưạ về nhất lại không có nài t ên lưng (đúng là
“ngựa quen đường cũ”!), và theo luật thi đấu thì con ngựa này sẽ lãnh hạng nhì
và người cỡi con ngựa về đích tiếp theo se được hạng nhất.
Người Mông Cổ cũng cho rằng trong trận đua ngựa nếu khói bụi
Horse racing |
Trên đường phố ở Thủ đô UB chúng tôi thấy nhiều tiệm để bảng
“VietNam Auto repair” vừa tiếng
VN Embassy in Mongolia |
Về giáo dục hiện nay trẻ em bắt đầu học thêm một ngoại ngữ
chính thức trong chương trình từ lớp 4. Giáo dục phổ thông tính từ lớp một đến
lớp 11 rồi thi vào đại học. Những nhân viên làm cho chính phủ sẽ được cho phép
một ngừơi con theo học đại học miễn phí còn ngoài ra đều phải trả học phí đại học;
Ứơc tính trung bình khoản 5- 6 ngàn USD một năm. Học sinh phải học cả hai lối
chữ viết cyric va alphabet vì ngôn ngữ Mông Cổ viết theo lối chữ giống liên xô.
Trên các bàn phím computer, chữ của mông cổ được khắc them vào bề mặt hông để
chuyển đổi từ latinh abc sang.
Để khuyến khích gia tăng dân số chính phủ tài trợ 500,000( tức
khoản 500 USD) cho các cặp vợ chồng kết hôn, và nếu sanh con thì mỗi người con
sẽ được trợ cấp 24 USD mỗi tháng cho đến 18 tuổi không kể đến thu nhập của cha
mẹ là bao nhiêu.
Trung bình một người tốt nghiệp đại học có việc làm thu nhập
khoản từ 200 USD trở lên. Còn bình quân thì thu nhập đầu người ở mức 1,800 USD/
một năm. Nhưng mà vẫn có sự chênh lệch lớn giữa thủ đô và miền quê.
Ngày nay dư âm của thời “Đại Hãn” của thế kỷ 12,13 chỉ còn
lại trong lịch sử; nhưng người Mông
danh con cháu của Đại Hãn.
Sukhbaatar Square |
DH bút ký- Tháng Bảy, 2007
No comments:
Post a Comment